Khách hàng: Thưa luật sư, tôi nộp hồ sơ khởi kiện ly hôn đơn phương với chồng tại Toà án nhân dân huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi nộp hồ sơ tôi có nộp kèm theo văn bản Xác nhận thông tin cư trú do Công an xã Vĩnh LA xác nhận chồng tôi đang tạm trú tại địa chỉ: BXX, xã Vĩnh LA, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng văn bản xác nhận thông tin cư trú chỉ có giá trị trong vòng 01 tháng, cho tới thời điểm nộp hồ sơ khởi kiện thì đã hết hạn. Toà án yêu cầu tôi phải xin văn bản Xác nhận thông tin cư trú còn thời hạn sử dụng của chồng tôi thì mới thụ lý giải quyết, còn không sẽ trả lại hồ sơ khởi kiện. Cho tôi hỏi luật sư: Tôi có phải xin xác nhận thông tin cư trú mới của chồng tôi hay không? Toà án có trả lại hồ sơ khởi kiện khi tôi không cung cấp xác nhận thông tin cư trú mới của chồng tôi?
Luật sư giải đáp: Về câu hỏi của bạn, luật sư xin giải đáp quy định pháp luật liên quan đến nội dung thắc mắc của bạn như sau:
MỤC LỤC
Toggle1. CÓ CẦN XÁC NHẬN THÔNG TIN CƯ TRÚ KHI NỘP KHỞI KIỆN LY HÔN ĐƠN PHƯƠNG
Theo quy định pháp luật thì việc xác nhận thông tin địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không bắt buộc khi khởi kiện tại Tòa án.
Mục đích của việc xác nhận thông tin của người bị kiện thường là để Toà án xác định thẩm quyền giải quyết và địa chỉ cư trú của người bị kiện để xác định phạm vi, nội dung mà người khởi kiện yêu cầu giải quyết và đảm bảo trong việc tống đạt các văn bản tố tụng đến người bị kiện trong thời gian thụ lý đúng với quy định của pháp luật.
Theo quy định tại điểm e khoản 4 Điều 189 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nội dung địa chỉ của người bị kiện trên đơn khởi kiện gồm: Tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức. Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện.
Tại điểm e Khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Trong trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú, làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện, thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Tóm lại, đối với trường hợp của bạn đã cung cấp văn bản Xác nhận thông tin về cư trú do Cơ quan Công an có thẩm quyền cấp thể hiện thông tin chồng bạn đang tạm trú tại địa bàn quản lý của cơ quan đó. Văn bản bạn cung cấp cho Toà án đã có đủ cơ sở pháp lý để chứng minh rằng bạn đã cung cấp đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện là chồng bạn.
Do đó, việc Toà án yêu cầu bạn xin xác nhận thông tin về cư trú mới của chồng bạn mới tiến hành thụ lý giải quyết là không có cơ sở. Nếu Toà án cho rằng văn bản xác nhận thông tin cư trú của bạn đã hết hạn và không có cơ sở chứng minh cho việc chồng bạn đang cư trú tại địa chỉ đã cung cấp thì có quyền gửi văn bản xác minh tới Cơ quan Công an có thẩm quyền để xác minh địa chỉ cư trú của chồng bạn trong quá trình thụ lý giải quyết.
2. TOÀ ÁN CÓ TRẢ LẠI HỒ SƠ KHỞI KIỆN KHI BẠN KHÔNG XIN XÁC NHẬN THÔNG TIN VỀ CƯ TRÚ?
Căn cứ khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về việc trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:
a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
b) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp pháp luật có quy định về các điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó;
c) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;
d) Hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 195 của Bộ luật này mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan, sự kiện bất khả kháng;
đ) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;
e) Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật này.
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện;
g) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện.”
Ngoài các trường hợp nêu trên thì Toà án không được trả lại hồ sơ khởi kiện của đương sự. Với trường hợp của bạn nêu trên thì bạn đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện mà ở đây là địa chỉ tạm trú của chồng bạn đang cư trú trên thực tế, có đăng ký với cơ quan có thẩm quyền thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở”. Theo đó, căn cứ vào Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao quy định tại khoản 5, khoản 6 như sau: Địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được xác định như sau: Nếu người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống thì nơi cư trú của họ là địa chỉ chỗ ở hợp pháp mà người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thường trú hoặc tạm trú hoặc đang sinh sống theo quy định của Luật cư trú. Trường hợp trong đơn khởi kiện người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP thì Tòa án phải nhận đơn khởi kiện và xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
Cho nên, Toà án không thể trả hồ sơ khởi kiện của bạn vì lý do văn bản Xác nhận thông tin cư trú của chồng bạn đã hết thời hạn sử dụng. Nếu Toà án trả lại hồ sơ khởi kiện thì bạn có thể yêu cầu Toà án trả lời cho bạn bằng văn bản và nêu rõ lý do từ chối nhận hồ sơ.
Liên hệ số điện thoại 0833999977 để gặp Luật sư hoặc đặt lịch hẹn để được tư vấn chi tiết đối với trường hợp của Quý Khách hàng.
More Stories
Không cần giấy xác nhận tình trạng độc thân khi đăng ký kết hôn 0833999977
Không có căn cước của chồng có đơn phương ly hôn được không?
Ly hôn đơn phương bao lâu – Luật sư ly hôn ở Hóc Môn